HONDA

Hãng xe HONDA

Đầu những năm 1940, hãng Honda được thành lập nhưng chưa phải là một tên tuổi lớn. Thử thách đầu tiên mà ông Soichiro Honda gặp phải chính là làm sao để tiêu thụ một số lượng lớn những động cơ hai thì dư thừa sau thế chiến thứ II. Đây thật sự là một bài toán khó vì loại động cơ này vào thời bấy giờ khá hiện đại và đắt tiền, sử dụng lại rất hao tốn nhiên liệu trong khi sự tàn phá của chiến tranh làm cho nguồn cung nhiên liệu cho người dân rất hạn chế. Sau nhiều đêm suy nghĩ ông Soichiro Honda đã có một quyết định táo bạo là đem những động cơ kia cải tiến lại đơn giản hơn để gắn vào những chiếc xe đạp, như thế giá thành sẽ hạ và dễ tiêu thụ hơn. Nói là làm, tháng 10 năm 1946, xưởng sản xuất ở Hamamatsu đã hoàn thiện sản phẩm “môtô đầu” tiên có cả pedal và bàn đạp nổ. Riêng để đối phó với tình trạng khan hiếm nhiên liệu, những chiếc xe này được ông Soichiro thiết kế lại để chạy bằng dung dịch chiết xuất từ nhựa thông (loại nhiên liệu này thời bấy giờ được sản xuất nhiều và cung cấp trong cả nước). Bài toán đầu tiên đã được giải, sau khi số động cơ thừa được tiêu thụ hết, ông Soichiro quyết định bắt đầu sản xuất những chiếc xe của chính mình. Sử dụng nguyên mẫu là những chiếc động cơ 2 kì còn thừa trước đây, ông đã xây dựng một bản thiết kế mới cho một loại động cơ 50cc với vị trí lắp động cơ không thay đổi so với những chiếc xe trước. Mùa đông năm 1947, chiếc A-Type được sản xuất với công suất 0,5 mã lực. Vẫn sử dụng dung dịch nhựa thông, chiếc xe hoạt động cùng với vô số khói và mùi khó chịu, có lẽ vậy mà người ta vẫn quen gọi nó với cái tên ấn tượng: The Stove – Bếp Lò. Từ ước mơ đến hiện thực Soichiro Honda chính thức thành lập Honda Motor vào năm 1948 ở tuổi 41 dưới sự giúp đỡ về tài chính của ngài Takeo Fujisawa (người mà sau này trở thành phó chủ tịch của Honda Motor). Họ nhanh chóng xây dựng nên một đế chế xe gắn máy cho mình. Cũng trong năm này hãng Honda sản xuất bản động cơ nâng cấp của A-Type mang tên B-Type với dung tích xy-lanh 90cc. Kết thúc chiến tranh gần 5 năm, kinh tế Nhật lúc này đang dần phục hồi sau giai đoạn khó khăn, điều này làm Honda nghĩ tới việc sản xuất những chiếc xe máy thực thụ hoàn chỉnh nhưng vẫn phải thật hợp với túi tiền của người dân. Năm 1949, Honda cho ra mẫu D-Type, chính Soichiro Honda đã quản lí tất cả các công đoạn sản xuất, gia công đến khi hoàn thiện sản phẩm. Đó cũng là chiếc xe đầu tiên do công ty Honda hoàn toàn sản xuất, một công việc toàn diện và phức tạp hơn nhiều so với việc chỉ lắp động cơ lên một thân xe đạp trước đây. Vì lí do đó Honda đã gọi nó là “The Dream” bởi lúc này giấc mơ của ông về việc tự sản xuất một chiếc xe hoàn thiện đã thành sự thật. Bản phát triển tiếp theo là động cơ 146cc OHV (Over Head Valve) 4 kì được đặt tên là E-Type Dream. Một động cơ mạnh mẽ với công suất 5,5 mã lực và có thể đạt tốc độ 50mph ( khoảng 80km/h). Chiếc xe có khung thép và đầy đủ cả giảm xóc trước sau. Vào tháng 10 năm 1951, chiếc Dream mới được sản xuất với tốc độ 130 chiếc 1 ngày. Bên cạnh những chiếc xe “đúng nghĩa” Honda vẫn không quên thị trường xe giá rẻ. Năm 1952, họ sản xuất chiếc “Cub” F-Type đầu tiên, chiếc xe hai kì với dung tích 50cc có sức mạnh 0.5 mã lực đã bán được với số lượng cực lớn. Chưa đầy một năm sau, sản lượng “Cub” đã đạt tới 6500 chiếc/tháng, chiếm 70% thị phần xe hai bánh ở Nhật. Năm 1953, Honda sản xuất chiếc xe 90cc J-Type, một sản phẩm được ứng dụng nhiều công nghệ phức tạp, được biết đến với cái tên Benly (trong tiếng Nhật nghĩa là: sự tiện nghi). Với hộp số 3 cấp, công suất 3.8 mã lực và thậm chí giảm xóc trước còn dùng dạng ống lồng, Honda đã bán được với mức 1000 xe/tháng. Năm 1954, chiếc scooter 200cc Juno được sản xuất để cạnh tranh với Vespa – mẫu xe thời gian đó đã bắt đầu xuất hiện ở Nhật. Honda cũng cải tiến chiếc Dream và Benly đặc biệt là về dung tích động cơ. Tháng 9/1957, Honda cho ra đời động cơ 2 xy-lanh đầu tiên của hãng, chiếc C70 Dream với 250cc. Đầu những năm 1958, Honda bắt đầu gắn hệ thống khởi động điện cho những chiếc C70 và đặt kí hiệu là C71. Năm 1959 chiếc Benly mới nhất được tung ra với động cơ 125cc và đạt vận tốc đến 100km/h. Sau sự khởi đầu thành công với xe giá rẻ, Honda tiếp tục sự nhảy vọt của công ty bằng bước tiến vào thị trường nước ngoài với dòng xe phân khối lớn. Năm 1959 đánh dấu bước tiến đầu tiên của Honda vào thị trường Mĩ, dường như đây cũng là một mảnh đất lành cho hãng Honda khi họ có những mẫu xe bán chạy nhất (với 30 triệu xe tính tới thời điểm này). Những chiếc xe đó hoàn thiện đến nỗi mà sau 25 năm C50, C70 và C90s cũng chỉ có những thay đổi bề ngoài để khiến chúng có dáng hiện đại hơn còn phần động cơ thì gần như vẫn giữ nguyên vẹn. Trong cùng năm 1959, Honda giới thiệu chiếc C72 Dream 250cc tại Amsterdam. Đó là chiếc xe Nhật đầu tiên được trình diễn tại châu Âu. Chiếc xe đã làm bất ngờ khách tham quan bởi những chi tiết mới lạ: khung thép gia cường, giảm xóc kép phía trước, động cơ nhôm OHC với hệ thống khởi động điện. Vào thời điểm đó ở Anh, người ta bị giới hạn không được lái xe có dung tích quá 250cc, vì thế những tay mê xe vẫn muốn được lái những chiếc xe nhanh nhất trong tầm dung tích được cho phép. Và C72 là một chiếc xe như thế, nó dễ dàng đạt tốc độ 80mph (130km/h) mà chỉ tiêu thụ 4lít nhiên liệu cho 100km. Ngay từ ngày mới thành lập, Soichiro Honda đã muốn thương hiệu Honda tham gia vào những cuộc đua và họ đã có mặt tại hơn 100 giải đua xe trên khắp thế giới. Những bài học từ việc tạo ra những cỗ máy có hiệu năng cao chính là tiền đề để phát triển những cải tiến cho dòng xe thương mại sau này. Năm 1962, Hondells đã ghi âm bản nhạc với tựa đề “Little Honda”, đây là sự đánh dấu cho việc Honda chính thức đi vào nền văn hóa âm nhạc Mĩ. Cũng thời điểm đó đứa con tốc độ C77 305cc ra đời. Đây là bản cải tiến tiếp theo, một chiếc xe thể thao thực sự với công suất tới 28,5 mã lực. Năm 1965, với khao khát luôn luôn muốn chinh phục những thị trường mới Honda đã chính thức bước chân vào vào thị trường xe phân khối lớn với sản phẩm đầu tiên là chiếc CB450 với 43 mã lực. Chiếc xe được gắn động cơ twin, cam đôi DOHC và hệ thống “torsion bar valve springs“ – hệ thống dây trợ lực giúp van đóng mở tốc độ nhanh. Những cải tiến đó đã giúp chiếc xe dễ dàng đạt vận tốc 167 km/h. Rút ra những kinh nghiệm nhất định sau 3 năm kinh doanh, đến năm 1968 thì Honda chính thức dừng sản xuất dòng xe CB72 và CB77 mà thay vào đó là một thế hệ xe mới: chiếc CB250 và CB350 có vận tốc lên đến 170km/h. Riêng tại thị trường Tokyo Show năm 1968, sau nhiều tháng chuẩn bị, Honda cho ra đời một chiếc concept mà từ đó về sau, đã thay đổi hoàn toàn thế giới xe thể thao. Đó là chiếc xe với động cơ 4 xy-lanh 750cc, với sự xuất hiện lần đầu của phanh đĩa. Và dĩ nhiên đứa con mang tên CB750K đã ra đời và cũng chính là chiếc xe lớn nhất ở Nhật Bản khi ấy. Tháng 4 năm 1969, Honda thỏa lòng người hâm mộ bằng việc chính thức sản xuất chiếc CB750F. Với tính năng vận hành hoàn hảo, chiếc xe đã đạt được vận tốc 192km/h và là tốc độ cao nhất mà một chiếc xe có thể đạt được trên đường vào thời điểm đó. Xem thêm

Chat